Thứ Ba, 24 tháng 11, 2020

Nằm trong top 400 đại học tốt nhất nước Mỹ nhưng 11 trường này cứ "nộp hồ sơ là đỗ", bố mẹ cập nhật ngay để chọn cho con

 


 

Dữ liệu được tạp chí US News and World report thu thập từ kỳ tuyển sinh mùa thu năm 2019 của các đại học, công bố vào 19/11 vừa qua.

Khắp nước Mỹ hiện có khoảng 3.000 trường đại học với chương trình học vô cùng đa dạng. Sẽ không khó để bạn tìm thấy chương trình và lộ trình học phù hợp tại nước này.

Mỗi trường sẽ có những mức độ khó dễ khác nhau tuỳ theo danh tiếng và trình độ của học sinh mà họ nhận vào trường. Nếu quan tâm đến môi trường học tập và mong tìm kiếm cơ hội việc làm tại Mỹ, du học sinh có thể lựa chọn một trong các đại học cứ "nộp hồ sơ là đỗ" này để theo học.

Đặc biệt, dù tỉ lệ chấp nhận sinh viên quốc tế rất cao nhưng 11 trường này đều nằm trong top 400 đại học tốt nhất nước Mỹ 2021, đa số nằm ở thứ hạng 100-200. Dưới đây là danh sách 11 trường:

STTTrườngThứ hạng tại MỹSinh viên quốc tế trúng tuyểnTỷ lệ chấp nhận
1

Đại học Toledo

298-389

675 - 680

99%

2

Đại học Kent State

217

635 - 640

99%

3

Đại học Colorado State

153

612 - 617

99%

4

Đại học Kansas

124

509 - 519

98%

5

Đại học Texas tại Arlington

298-389

584 - 625

93%

6

Đại học Loyola Chicago

112

1.309 - 1.425

90%

7

Đại học Virginia Commonwealth

160

451 - 515

88%

8

Đại học Utah

97

474 - 546

87%

9

Đại học Colorado Boulder

103

1.801 - 2.097

86%

10Đại học Texas tại Dallas143

513 - 629

82%

11

Đại học Cincinnati

143

970 - 1.176

82%

Trong kỳ học mùa thu 2019, tỷ lệ chấp nhận sinh viên quốc tế trung bình tại các đại học Mỹ là 45%. Cả 11 trường trong danh sách đều có tỷ lệ chấp nhận cao hơn mức trung bình rất nhiều, trong đó 6 trường gấp đôi. Cụ thể, ba đại học có tỷ lệ chấp nhận sinh viên quốc tế lên tới 99%, gần như "cứ nộp hồ sơ là đỗ", nhiều trường khác có tỷ lệ trên 80%.

Ba đại học đồng hạng nhất là Toledo, Kent State và Colorado State. 

Trong tổng số hồ sơ của sinh viên quốc tế trường nhận được, chỉ 5 em trượt còn lại đều được nhận, nâng tỷ lệ chấp nhận lên tới 99%.

Đại học Toledo: Được thành lập năm 1872, Đại học Toledo là trường Đại học Nghiên cứu Công lập trong 14 trường tại tiểu bang Ohio, với cơ sở vật chất đẳng cấp, chất lượng đào tạo được Quốc gia công nhận.

Nằm trong top 400 đại học tốt nhất nước Mỹ nhưng 11 trường này cứ nộp hồ sơ là đỗ, bố mẹ cập nhật ngay để chọn cho con - Ảnh 1.

Đại học Toledo là trường Đại học Nghiên cứu Công lập với cơ sở vật chất đẳng cấp, chất lượng đào tạo được Quốc gia công nhận.

Đây là một trong số những trường Đại học Nghiên cứu  tốt nhất thế giới (theo xếp hạng của Times Higher Education).

Xếp ngay sau 3 đại học đồng hạng nhất là Đại học Kansas với tỷ lệ 98% chấp nhận hồ sơ là 98%.

Hai trường khác cũng có tỷ lệ từ 90% trở lên là Đại học Texas tại Arlington (93%), Đại học Loyola Chicago (90%).

Các trường còn lại của top 11 có tỷ lệ chấp nhận dao động 82-88%, nằm trong top 100-160 đại học tốt nhất nước Mỹ.

Đại học Utah là đại học duy nhất trong danh sách xếp hạng dưới 100, có tỷ lệ chấp nhận 87%. Trường tuyển ít sinh viên quốc tế thứ hai trong nhóm xếp hạng, chỉ 474 em. Đây là một trong những trường đại học tốt nhất ở Mỹ để thành lập các công ty khởi nghiệp dựa trên cơ sở nghiên cứu của sinh viên.

Nằm trong top 400 đại học tốt nhất nước Mỹ nhưng 11 trường này cứ nộp hồ sơ là đỗ, bố mẹ cập nhật ngay để chọn cho con - Ảnh 2.

Trường bao gồm các cao đẳng: Kiến trúc và quy hoạch, kinh doanh, giáo dục thường xuyên, kỹ thuật, nghệ thuật, trường Graduate, y tế, cao đẳng Honors, nhân văn, luật, y khoa, khoa học trái đất và mỏ, điều dưỡng, dược, khoa học, khoa học hành vi và xã hội, công tác xã hội. Đại học Utah cấp văn bằng chuyên ngành thứ nhất/tiến sỹ, thạc sỹ, cử nhân, giấy chứng nhận.

Ở Mỹ có 2 kỳ nhập học chính là kỳ thu (kỳ tháng 9) kéo dài từ tháng 9 - 12 và kỳ xuân (kỳ tháng 1) từ tháng 1 - 5. Ngoài ra còn có kỳ hè từ tháng 6 đến tháng 8, tuy nhiên, kỳ học này chỉ dành cho những chương trình đặc biệt, ngắn hạn.

Theo Khải Phong


 

Thứ Hai, 2 tháng 11, 2020

4 năm thăng trầm của Phố Wall dưới thời Trump

4 năm thăng trầm của Phố Wall dưới thời Trump

 

Đà hồi phục của nền kinh tế, sau đó là cuộc chiến thương mại và cuối cùng là dịch bệnh Covid-19. 4 năm nhiệm kỳ tổng thống của Donald Trump là một giai đoạn diễn biến hoàn toàn khác biệt của thị trường chứng khoán Mỹ so với khoảng thời gian trước đó.

Chỉ vài giờ sau chiến thắng đầy bất ngờ của Donald Trump vào ngày 8/11/2016, những đồn đoán về khoản cắt giảm thuế khổng lồ và quá trình “tự do hoá” thị trường tài chính đã châm ngòi cho một sự bủng nổ trên thị trường chứng khoán với chỉ số S&P 500 tăng 5% chỉ trong vòng 1 tháng.

Phố Wall tiếp tục đà tăng cho dù cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc đang nổ ra hết sức quyết liệt, bên cạnh đó là sự nghi ngại đến từ những nhà đầu tư, giúp thị trường này liên tục phá những kỷ lục về giá trị, trước khi rơi vào thời kỳ suy thoái “có một không hai” trong lịch sử gây ra bởi đại dịch Covid-19 - cơn khủng hoảng không chỉ của nước Mỹ nói riêng mà còn của toàn thế giới nói chung.

4 năm thăng trầm của Phố Wall dưới thời Trump - Ảnh 1.

Diễn biến S&P 500 kể từ khi Trump nhậm chức.

Vị tổng thống đảng Cộng hoà nhận được rất nhiều sự tin tưởng khi liên tục xuất hiện những dấu hiệu khả quan của thị trường, ông đăng tới hơn 150 dòng tweet về thị trường chứng khoán kể từ khi đắc cử, thường vào thời điểm thị trường chứng khoán tăng điểm.

4 năm thăng trầm của Phố Wall dưới thời Trump - Ảnh 2.

Kích thước dấu chấm thể hiện số lần Trump nhắc đến Phố Wall trên Twitter còn vị trí dấu chấm thể hiện giá trị của S&P 500 tại cuối tháng tương ứng.

Cho dù xuất hiện những dấu hiệu bất ổn trong khoảng thời gian gần đây, thị trường chứng khoán vẫn tăng trưởng mạnh trong nhiệm kỳ của Trump, với chỉ số S&P 500 tăng hơn 50% kể từ cuộc bầu cử  tháng 11/2016, cao hơn giai đoạn 4 năm nhiệm kỳ đầu của Barack Obama từ năm 2008.

Lĩnh vực công nghệ tăng trưởng hơn 150% kể từ ngày 8/11/2016 và là lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất trong cùng giai đoạn đó, trong khi lĩnh vực năng lượng, lĩnh vực rất được ông Trump quan tâm, lại giảm hơn một nửa giá trị. Trong vòng 4 năm sau chiến thắng của Obama vào năm 2008, lĩnh vực hàng tiêu dùng thiết yếu đã tăng 103%, trong khi lĩnh vực tài chính giảm 2%.

4 năm thăng trầm của Phố Wall dưới thời Trump - Ảnh 3.

Diễn biến của 11 lĩnh vực chính trong S&P 500 dưới thời nhiệm kỳ đầu của Trump và Obama.

Đà tăng trưởng của chỉ số S&P 500 kể từ chiến thắng của Trump vào năm 2016 cũng vượt lên trên ngưỡng bình quân của các tổng thống trong giai đoạn thập kỷ 80 của thế kỉ trước. Thị trường chứng khoán tăng trưởng mạnh nhất kể từ những năm 1980, dưới thời tổng thống đảng Dân chủ Bill Clinton, trong khi diễn biến xấu nhất của thị trường diễn ra vào thời tổng thống đảng Cộng hoà George W. Bush.

Tuy nhiên, diễn biến tăng trưởng của thị trường chứng khoán trong 4 thập kỷ qua không phản ánh rõ những ưu thế từ các tổng thống đảng Cộng hoà so với những người đồng nhiệm đến từ đảng Dân chủ.

4 năm thăng trầm của Phố Wall dưới thời Trump - Ảnh 4.

Diễn biến của S&P 500 qua các thời tổng thống Mỹ.

Trong khi nhiệm kỳ tổng thống của Trump là một quãng thời gian không hề dễ dàng với các nhà đầu tư, những nhiệm kỳ tổng thống khác thậm chí còn đem lại những sự bất định nhiều hơn. Sự bất ổn trên thị trường chứng khoán kể từ đầu thập niên 80 của thế kỷ trước lên cao đến mức kỷ lục trong giai đoạn 4 năm sau khi Obama đắc cử, trước khi có dấu hiệu hạ nhiệt trong nhiệm kỳ thứ hai của ông. Thị trường chứng khoán đã có những bước tăng trưởng dưới thời ông Trump.

Đối với những người kỳ vọng về những bước tăng trưởng mạnh trong thời gian tới, việc Trump tái đắc cử là kết quả là họ mong muốn. Chỉ số S&P 500 kể từ năm 1950 bình quân đã tăng 9,6% trong năm đầu sau khi một tổng thống tái đắc cử, so với mức tăng trưởng 4,8% của một tổng thống hoàn toàn mới, theo LPL Financial.

Diễn biến của chỉ số S&P 500 hoàn toàn có thể dự báo kết quả của cuộc bầu cử tổng thống.

Quay trở lại năm 1944, các vị tổng thống ở nhiệm kỳ thứ 2, hoặc các tổng thống mới đến từ đảng cầm quyền trong nhiệm kỳ trước, đạt tỷ lệ thắng trong các cuộc bầu cử tới 82% khi chỉ số S&P 500 có những dấu hiện tích cực trong khoảng thời gian 3 tháng trước ngày bầu cử, theo Sam Stovall, nhà chiến lược đầu tư trưởng tại CFRA tại New York. Chỉ số S&P 500 chỉ tăng ít hơn 1% kể từ ngày 31/7, qua đó có thể nói những thống kê lịch sử kể trên không hề ủng hộ ông Trump trong cuộc bầu cử lần này.

Tuy nhiên, với dịch bệnh Covid-19, nền kinh tế đang gặp vô vàn khó khăn cộng với đó là những bàn luận về việc giảm nhẹ tác hại của dịch bệnh trên khắp Phố Wall, chỉ số S&P 500 gần đây có thể không phản ánh chính xác quan điểm của các nhà đầu tư về kết quả của kỳ bầu cử sắp tới. Chỉ số S&P 500 đã sụt giảm 3% trong ngày 28/10, với việc các nhà đầu tư đổ lỗi cho sự gia tăng đột biến của các ca nhiễm mới.

“Nếu như sự tập trung của thị trường là sự phục hồi sau dịch bệnh, thì đó chính là sự ưu tiên số một thay vì việc đảm bảo tiếp tục duy trì chính quyền hiện tại trong nhiệm kì mới”, Stovall chia sẻ.

4 năm thăng trầm của Phố Wall dưới thời Trump - Ảnh 5.

Biến động thị trường dưới các thời tổng thống Mỹ.